• 024.385.84943
  • Thứ 2 - Thứ 6: 8:00 - 17:00
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học
img

Tọa đàm: Phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do mưa lũ gây ra

Chúng tôi xin gửi tới các bạn bài Tọa đàm “Phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do mưa lũ gây ra” của PGS.TS Nguyễn Tiền Giang trả lời Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Câu 1: Thưa PGS. TS Nguyễn Tiền Giang, trong thời gian gần đây, tình hình mưa lũ tiếp tục diễn biến khó lường, cực đoan. Mưa lớn liên tục trong nhiều ngày dễ gây nên tình trạng lũ lụt và sạt lở đất. Trong khi đó, sạt lở đất là loại hình thiên tai rất nguy hiểm bởi tính bất ngờ và khó lường trước và hậu quả gây ra rất nghiêm trọng. Theo ông, chúng ta cần có những giải pháp như thế nào để kịp thời nhận biết khu vực sạt lở sắp xảy ra và kịp thời tuyên truyền cho người dân, người đi đường biết về khu vực sạt lở?

  • Sạt lở đất kiểu đá rơi tại QL 6, Mai Châu, Hòa Bình, ngày 4/8/2023
  •  

Hiện nay đang tồn tại khá nhiều các định nghĩa khác nhau về sạt lở đất do bản chất phức tạp của hiện tượng và nhiều ngành khác nhau nghiên cứu về nó. Theo Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg, Sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy hoặc hạn hán là hiện tượng đất, đá bị sạt, trượt, lở do tác động của các điều kiện nêu trên. Còn theo các nhận định của một số chuyên gia trên thế giới, Sạt lở đất, đôi khi được gọi là trượt lở đất, là hiện tượng chuyển dịch theo phương mái dốc của đất, đá, cùng các vật liệu khác dưới tác động của trong lực. Có nhiều loại sạt lở và mỗi loại lại có nguyên nhân, cơ chế, thời gian xảy ra khác nhau.

Hiện tượng các khối đá tảng rơi, đổ xuống đường xảy ra do các nguyên nhân như con người làm đường giao thông, đào sâu vào mái taluy, hoặc do động đất hoặc các rung chấn với cường độ mạnh (tích xả nước hồ chứa đột ngột), xảy ra ở những nơi có đồi núi với độ dốc sườn lớn. Cũng có khi nguyên nhân làm đá rơi, lăn do tác động của các khối trượt nhỏ phía trên, hay mưa xuống các khe nứt do bị phong hóa. Loại đá rơi và đá đổ này thời gian xảy ra nhanh, bất ngờ, do vậy rất nguy hiểm cho con người và xe cộ. Dấu hiệu nhận biết sớm có thể là các vật liệu đất đã có kích thước nhỏ hơn vừa rơi, lăn xuống đường. Khi đi qua các đoạn đường có vách núi dốc đứng mà thấy có hiện tượng đất đá nhỏ rơi xuống thì ra tín hiệu dừng xe và cảnh báo mọi người không nên đi qua, đặc biệt khi các ngày trước và trong hôm đó có mưa (cả nhỏ và to).

Đối với loại trượt lở đất, cả khối đất, đá sẽ trượt theo mặt trượt (phẳng hoặc cong), nguyên nhân hay yếu tố kích hoạt là mưa cường độ lớn và/hoặc có mưa trước đó trong nhiều ngày, hoặc do tưới hay rò rỉ đường ống dẫn nước làm bão hòa độ ẩm đất. Tốc độ xảy ra có thể từ chậm đến vừa và rất nhanh. Khi trượt diễn ra nhanh gây thiệt hại về người. Các dấu hiệu nhận biết trước có thể là các khu vực đã từng xảy ra trượt lở, các vết nứt ở đỉnh hoặc chân khối trượt mở rộng.

Đối với loại sạt lở dạng dòng, là dòng mang theo vật liệu đất, đá bị sạt lở với quy mô lớn, tốc độ cực kỳ nhanh, thường diễn ra trên sườn dốc hở khi một sườn dốc không ổn định sụp đổ và các vật liệu được vận chuyển nhanh ra khỏi sườn dốc.

Loại sạt lở sườn dốc dạng dòng này thường là kết quả của sự mất ổn định của sườn dốc, chẳng hạn như trong quá trình sụp đổ của các sườn dốc bị phong hóa hoặc thông qua sự phân rã của nền đá gốc trong một trận lở đất kiểu trượt khi nó di chuyển xuống dốc với tốc độ cao. Tại thời điểm đó, khối trượt sẽ trở thành sạt lở sườn dốc dạng dòng. Vật liệu của loại sạt lở này có thể di chuyển nhiều km trước khi dừng lại, hoặc chúng có thể chuyển thành các dòng lũ bùn cát di chuyển xa hơn hàng chục km về hạ lưu.

Trượt lở đất dạng dòng xảy ra bất ngờ nên thường không có dấu hiệu chỉ báo. Chỉ có với một dạng của nó, là dòng chảy đất với tốc độ di chuyển chậm thì có các chỉ báo như thân cây cong, hàng rào cong và (hoặc) tường chắn, cột hoặc hàng rào nghiêng, và các gợn đất nhỏ hoặc gờ trên bề mặt đất.

Ở phần trên, chúng ta đã bàn đến 3 loại sạt lở chính thường xảy ra tại Việt Nam và các dấu hiệu cảnh báo theo kinh nghiệm. Tuy nhiên, sạt ở đất thường xảy ra rất nhanh, bất ngờ nên các dấu hiệu nhận biết theo kinh nghiệm chỉ làm giảm nguy cơ một phần. Muốn an toàn hơn, chúng ta cần có các giải pháp cảnh báo sớm dựa trên cơ sở khoa học, sử dụng các phương pháp, phương tiện phù hợp. Công việc này cần sự vào cuộc của các nhà khoa học và các đơn vị quản lý cả ở TW và địa phương.

Cần lưu ý là sạt lở bờ sông, bờ biển cũng có thể coi là sạt lở đất, nhưng nguyên nhân và cơ chế phức tạp hơn sạt lở đất ở các sườn đồi, núi. Tương tự, hiện tượng sụt lún đất do quá trình lỏng hóa lớp thổ nhưỡng phía dưới lớp bề mặt, làm cho đất bị sụt xuống so với vùng xung quanh cũng được xem như một loại sạt lở đất. Hai loại sạt lở này không được thảo luận ở đây.

 

  • Sạt lở đất dưới dạng dòng bùn đá tại thôn Ra Pân, xã Sơn Long, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 11/11/2020
  •  

Câu 2: Tình hình thiên tai, trong đó có mưa lũ, sạt lở đất, lũ quét diễn biến ngày càng cực đoan và khó lường trong thời gian gần đây. Theo quan điểm của ông, đâu là nguyên nhân dẫn đến thực trạng này?

Mặc dù ba loại hiểm họa này có mối liên quan mật thiết đến nhau, nhưng chúng cũng có thể xảy ra một cách độc lập. Trong thực tế, mưa lớn có thể không gây ra sạt lở hay lũ quét; và sạt lở có thể không gây ra lũ quét và ngược lại. Tuy nhiên các nhà chuyên môn nước ta cũng như trên thế giới đều công nhận rằng nước mưa và nước chảy tràn bề mặt là hai nhân tố kịch hoạt quan trọng nhất đối với sạt lở và lũ quét. Tiếp theo sau mới đến các nhân tố điều kiện liên quan đến địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, thảm phủ. Các hoạt động phát triển kinh tế xã hội sẽ làm biến đổi một số các nhân tố này theo chiều hướng bất lợi, dẫn đến sự gia tăng các loại hình thiên tai chúng ta đang bàn. Theo quan điểm của tôi, có hai nguyên nhân chính sau đây dẫn đến tần suất xuất hiện, rủi ro hay thiệt hại do sạt lở đất và lũ quét ngày càng gia tăng ở nước ta:

- Thứ nhất, đi cùng với tăng trưởng dân số và tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng theo không gian của hệ thống cơ sở hạ tầng, các khu đô thị từ miền núi đến đồng bằng. Năm 1990, dân số Việt Nam chỉ 67 triệu người, đến năm 2020 đã 97 triệu, mật độ dân số tăng gần 1,5 lần trong vòng 3 thập kỷ. Điều này làm gia tăng con số thống kê về các loại hiểm họa này. Cụ thể hơn:

+ Việc mở rộng hệ thống đường giao thông, và các loại cơ sở hạ tầng khác như nhà cửa, hồ thủy điện, công trình công cộng ở các khu vực đồi, núi làm tăng độ mất ổn định mái dốc, tăng tải trọng lên các khối trượt, làm gia tăng nguy cơ sạt lở đất.

+ Sự suy giảm về diện tích, chất lượng của rừng nguyên sinh do bị thay thế bằng các loại rừng trồng, cây công nghiệp và các loại đất canh tác nông nghiệp khác làm ra tăng tốc độ xói mòn, phong hóa đất đá bề mặt (mất đất phổ dụng), tăng hệ số dòng chảy mặt, làm ra tăng sạt lở đất và lũ quét.

+ Sự mở rộng diện tích đất nông nghiệp ở các sườn dốc, cùng với nó là gia tăng lượng nước tưới, nước rò rỉ qua hệ thống cấp thoát nước, làm tăng khả năng của đất bị bão hòa nước, dẫn đến sạt lở.

+ Các hiểm họa trước đây đã xảy ra ở các khu vực không có dân cư, không được kiểm đếm vì không gây ra thiệt hại về người và của. Điều này làm con số ghi nhận các trận lũ quét, sạn lở đất cũng một phần gia tăng.

- Thứ hai là do biến đổi khí hậu. Theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), biến đổi khí hậu dẫn đến sự thay đổi theo vùng về độ lớn, cường độ mưa và tính biến động theo thời gian của các trận mưa cực đoan. Nóng lên toàn cầu làm gia tăng cháy rừng. Gia tăng năng lượng tiêu thụ do biến đổi khí hậu là nguyên nhân gián tiếp làm tăng số lượng các mỏ than, mỏ khí đốt, mỏ địa nhiệt, dẫn đến thay đổi các điều kiện địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, thảm phủ. Do vậy, biến đổi khí hậu cũng có thể là nguyên nhân làm thay đổi các yếu tố kích hoạt cũng như các yếu tố điều kiện gây ra sạt lở đất và lũ quét. Ở nước ta, cũng như trên thế giới có khá ít các nghiên cứu liên quan đến tác động của BĐKH đến lũ quét, sạt lở đất do sự khác biệt lớn về quy mô không gian và thời gian của các hiện tượng. Do vậy, cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.

  • Lũ quét tại bản Nậm Nhừ 1, xã Nậm Nhừ, H. Nậm Pồ, Điện Biên, 17/8/2020
  •  

Câu 3: Thưa PGS.TS Nguyễn Tiền Giang, cũng như loại hình thiên tai sạt lở đất, lũ quét thường đến rất bất ngờ, đột ngột và sức tàn phá mang tính khủng khiếp. Theo quan điểm của ông, chúng ta có thể nhận biết trước được các dấu hiệu lũ quét sắp đi qua địa bàn có người dân đang sinh sống hay không? Và nếu có thì các dấu hiệu này thường là gì?

Theo Tổ chức khí tượng thế giới (WMO, 2012), Lũ quét là lũ xảy ra trong thời gian ngắn với lưu lượng đỉnh lũ tương đối cao. Lũ quét gây ra bởi các trận mưa có cường độ lớn khiến mực nước dâng cao rất nhanh. Theo Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg Lũ quét là lũ xảy ra bất ngờ trên sườn dốc và trên các sông suối nhỏ miền núi, dòng chảy xiết, thường kèm theo bùn đá, lũ lên nhanh, xuống nhanh, có sức tàn phá lớn.

Lũ quét thường xảy ra ở các khu vực đầu nguồn các sông suối, với diện tích lưu vực từ vài km2 đến vài trăm km2. Để phân biệt nó với các loại lũ khác, các nhà khoa học sử dụng khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu mưa hoặc thời điểm vỡ đập nghẽn dòng đến khi lũ bắt đầu lên. Đối với lũ quét khoảng thời gian này chỉ từ vài phút đến tối đa là 6 tiếng. Do vậy việc có được các dấu hiệu lũ quét sắp xẩy ra để cảnh báo, phòng tránh là rất khó khăn và trong một số trường hợp là đã muộn khi nhận ra các dấu hiệu này để sơ tán.

Có nhiều cách phân loại lũ quét, tương ứng với các nguyên nhân, cơ chế và dấu hiệu nhận biết khác nhau. Ở Việt Nam thường chia lũ quét thành 3 loại chính (đôi khi là 5 loại), khá đặc thù. i) Lũ quét sườn dốc là lũ quét phát sinh chủ yếu do mưa lớn đột ngột xuất hiện trên lưu vực có sườn dốc cao, độ dốc lớn, nước lũ tập trung nhanh; ii) Lũ quét nghẽn dòng là loại hình lũ miền núi thường phát sinh từ các khu vực có nhiều trượt lở ven sông, suối. Do sông suối đột nhiên bị tắc nghẽn bởi đất đá bị sạt lở tương tự như một đập chắn, và đập chắn bị mất ổn định và vỡ, lượng nước tích lại được giải phóng đột ngột tạo thành sóng lũ lớn về phía hạ lưu; iii) Lũ quét hỗn hợp là lũ quét được hình thành đồng thời bởi hai loại trên. Đây là dạng lũ thường xảy ra nhiều ở vùng núi nước ta và chúng có sức tàn phá mạnh, vùng ảnh hưởng rộng.

Theo kinh nghiệm của người dân từng trải qua lũ quét thì một số dấu hiệu sau có thể báo hiệu lũ quét sẽ sớm xuất hiện hoặc đã bắt đầu diễn ra:

Mực nước ở kênh, rạch, sông suối ở cạnh nhà lên nhanh bất thường trong khi đang có mưa lớn.

Nước chuyển mầu đục, nhiều bùn cát

Có tiếng động lớn, lạ, tiếng đá lăn, thân cây va trạm vào nhau

Xung quanh khu vực mình sống vừa có hoặc từng có hiện tượng sạt lở đất và bắt đầu có mưa lớn.

  •  
  • Trượt lở đất tại Đèo Bảo Lộc, Đắc Oai, Lâm Đồng, ngày 30/7/2023
  •  

Câu 4: Để ngăn ngừa, giảm thiểu tối đa hậu quả của thiên tai, trong đó có mưa lũ, lũ quét, sạt lở đất,…theo PGS.TS Nguyễn Tiền Giang, chúng ta cần triển khai các giải pháp trước mắt và về lâu dài như thế nào?./.

Các giải pháp để ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa các thiệt hại về người và của thì có khá nhiều, có thể phân loại chúng thành 2 nhóm lớn, gồm nhóm giải pháp công trình và phi công trình.

Liên quan đến giải pháp công trình, là nhóm giải pháp được con người thực hiện để tác động trực tiếp đến đối tượng gây hiểm họa (mưa lớn, khối đất, đá có khả năng sạt lở, dòng chảy tràn bề mặt, dòng lũ quét và dòng chảy bùn đá). Các giải pháp này thường được thực hiện khi các khu vực cụ thể được xác định là có khả năng xảy ra thiên tai cao, đồng thời có tính dễ bị tổn thương lớn.

Các giải pháp phi công trình là các giải pháp không tác động trực tiếp đến đối tương gây hiểm họa. Ví dụ như cảnh báo, phân vùng nguy cơ sạt lở, lũ quét sử dụng các phương pháp khoa học. Từ đó di dân sớm ở những vùng có nguy cơ hay rủi ro thiên tai cao.

Cảnh báo thời gian thực cũng là một biện pháp phi công trình, trong đó các khu vực cụ thể được đặt trong chế độ “theo dõi”. Các phương pháp đơn giản như thống kế sử dụng dữ liệu quá khứ, các mô hình kinh nghiệm liên quan đến các yếu tố kích hoạt cho đến các mô hình số thủy văn, thủy động lực học được “chạy” để đưa ra các bản cảnh báo liên tục có thời gian dự kiến từ vài giờ đến vài ngày cho khu vực cụ thể dựa trên dữ liệu quan trắc và dự báo mưa lớn theo thời gian thực. Khi có báo động, người dân có thể di chuyển đến các nơi an toàn, được xác định trước hiểm họa.

  • Lực lượng chức năng đặt biển cảnh báo khu vực sạt lở đất

 

Như vậy, các giải pháp trước mắt có thể kể đến gồm:

- Nâng cao kiến thức của người dân, các cấp chính quyền ở địa phương về nguyên nhân, cơ chế, các đặc điểm nhận dạng, tính chất nguy hiểm, và cách giảm thiểu ủi ro của các loại hình thiên tai này thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các khóa đào tạo ngắn hạn.

- Trước các mùa lũ bão hàng năm, các chuyên gia và nhà quản lý địa phương cần rà soát các điểm có nguy cơ cao, đặt các biển cảnh báo, tuyền truyền vận động bà con cần nâng cao cảnh giác, chuẩn bi các phương án ứng phó, di dời khi cần thiết.

- Các cấp chính quyền địa phương thực hiện ngay các giải pháp công trình trọng điểm, cấp bách trong điều kiện có thể để giảm thiểu nguy cơ thiên tai.

- Tiếp tục thực hiện các dự án lớn cấp quốc qia về phân vùng thiên tai, cảnh báo theo thời gian thực cho các vùng có nguy cơ xảy ra thiên tai. Chuyển giao kết quả đến các địa phương. Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản là hai đơn vị được Bộ TN&MT giao thực hiện các nhiệm vụ quan trọng này.

Về lâu dài, cần có các giải pháp sau:

- Nhà nước cần có các chương trình nghiên cứu khoa học dài hạn, huy động được đội ngũ các nhà khoa học mạnh, có kiến thức liên ngành cao để tham gia nghiên cứu, tìm ra các nguyên nhân, cơ chế, các phương pháp dự báo, cảnh báo xa (như phân vùng nguy cơ, rủi ro) và dự báo thời gian thực của các loại hình thiên tai này.

- Tiếp tục thực hiện cơ chế lồng ghép, ứng dụng các kết quả nghiên cứu từ các đề tài, dự án liên quan đến phòng chống thiên tai vào các quy hoạch cấp tỉnh và có thể cấp huyện, xã. Huy động nhiều nguồn lực để hiện thực hóa các các quy hoạch này

- Phát huy vai trò của các Trường Đại học trong sự nghiệp phòng chống thiên tai của cả nước, thông qua công tác nghiên cứu, giảng dạy về phòng chống thiên tai, đặc biệt là trong lĩnh vực khí tượng, thủy văn tài nguyên nước.

- Nâng cao vai trò của báo chí, các cơ quan truyền thông trong công tác phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.

Tóm lại, có thể dễ nhận ra rằng, thiệt hại do các loại hình thiên tai như mưa lớn, sạt lở đất và lũ quét sẽ tiếp tục ra tăng, với mức độ ngày càng nghiêm trọng trong thời gian tới. Công tác phòng chống giảm nhẹ thiên tai là công việc của toàn dân, toàn quân, các cấp chính quyền từ TW đến địa phương, và là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người dân. Nâng cao năng lực, kiến thức về phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai là công việc lâu dài cũng như cấp thiết. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất và áp dụng thực hiện các giải pháp thông minh, mang tính đột phá, sử dụng các công nghệ hiện đại, là những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào công tác phòng tránh và giả nhẹ thiên tai một cách hiệu quả, theo hướng thuận thiên, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của cả nước.

 

PGS.TS. Nguyễn Tiền Giang

 

Messenger